Không ngờ! Những ai là khán giả của cải lương hồ quảng hay tuồng cổ của thời sau này thì có thể nói là do hai gia đình Minh Tơ và Huỳnh Long tạo nên. Thời của má 6 thì nghe nói là hồ quảng thì thuộc về đoàn Phụng Hảo của ns Phùng Há.
Tin nghệ sĩ/Tác giả Thanh Tòng ra đi rất đột ngột. Không có báo tin nằm bịnh viện mà chỉ nhận được tin là chú đã qua đời. Đối với Ti thì Ti có được may mắn làm việc chung với vị tác giả nổi tiếng này. Đúng ra thì do "hữu duyên". Chứ lúc lên nhân vật thì không bao giờ nghĩ đến được mời chú Thanh Tòng diễn trong kịch bản của mình. Có được nghệ Thanh Tòng trong 2 kịch bản Triêu Phi Loạn Yên Bang và Lưỡng Quốc Thâm Tình thì đối với khán giả ái mộ là một sự kết hợp trở lại của đôi nghệ sĩ có thể cho là bậc nhất nhì của tuồng cổ: Thanh Tòng và Vũ Linh. Chỉ cần hai người nghệ sĩ này đối mặt với nhau qua nhân vật là tự nhiên đã tạo nên chemistry của màn diễn. Đến khi mỗi bên ra vũ đạo thì nét đẹp của tuồng cổ là đây, ở cách quăng bắt rất kỹ thuật và đẹp ở bộ hình.
Trong kịch bản Triệu Phi thì chú có góp ý cho 2 lần ở nhân vật chú diễn, Triệu Bá. Một lần là ở cảnh Triệu Bá nhận lịnh trảm của vua. Tiên dùng điệu Nam Ai để diễn tả nỗi buồn và oan ức của nhân vật trung thần. Chú nói cho chú đổi ở phần giữa, đưa vào 2 câu của Nam Đảo để đưa sự uất ức lên cao và chuyển lại Nam Ai và dứt câu. Đó là nghệ thuật và kinh nghiệm của một tác giả đã từng tạo nên cảm xúc nhân vật. Lần thứ hai ở lần xử Triệu Phi. Ti viết là "... nhưng vì Hàn Cơ là ngoại bang, khó tránh được tiếng dị nghị bên ngoài, nên ta đành khổ nhục kế để thử lòng Hàn Cơ." Khổ nhục kế là đem thằng con Triệu Phi ra đánh tả tơi để thử lòng công chúa. Chú Thanh Tòng ngồi bên cạnh Tiên, nói như vầy. "Chỗ này, chú nghĩ là mình nên dùng chữ nhẹ, "nên ta đành thử lòng Hàn Cơ." Tại vì Triệu Bá là nhân vật hiền, trung thực nên nếu cho ổng dùng chữ 'kế' thì chú nghĩ sẽ làm cho ổng dữ." Ti dạ liền lập tức vì chú phân tích nhân vật và giữ trọn nhân vật quá đúng. Ti nói thêm là "chú coi chỗ nào cần chỉnh thì giúp cho con." Chú chỉ nói "Con viết vầy giỏi quá rồi. Hay lắm." Lúc đó đừng khớp ông già thì có lẽ sẽ ép ổng khen mình thêm
Trong kịch bản Lưỡng Quốc Thâm Tình thì có một chỗ. Chú cứ khen con viết tâm tình ông A Cốt Đả hay quá, đúng chất dân miền núi. Ở đoạn hai cha con đối đầu, a Linh đọc kịch bản rồi phì cười nói với chú Thanh Tòng. "Ông A Cốt Đả làm một hơi 3 câu vọng cổ, thẳng thắng luôn!" Chú Thanh Tòng cười hề hề nói, "hát cho đã mà." Đến câu "Chẳng câu nệ câu huyết thống, đối với cha, con mãi là một tự hào." Chú Thanh Tòng hát rồi nói với Tiên, "Con cho chú thêm hai chữ 'Nhan Vũ!' rồi tới câu 'Con mãi là một tự hào'. Nhấn mạnh sự tự hào ở cái tên Nhan Vũ mà ổng đặt cho nó. 'Nhan Vũ! Con mãi là một tự hào!' Vậy được không con?" Lúc đó, Ti chỉ biết "dạ" và cảm thấy cảm kích trong lòng ở những chỉ dẫn trong việc tạo nhân vật cho chặt chẽ như vầy. Không dài dòng cảm thán mà chỉ một hai chữ thôi mà làm hoàn hảo nhân vật ở cảm xúc và nhân cách.
Thời gian quay 2 kịch bản này thì chú đã có phần yếu vì do bịnh thấp khớp, bước lên bước xuống đã khó khăn. Đoàn phim luôn sắp giờ quay để chú xong cảnh của chú trước để chú về nghỉ sớm. Khi ra về, chú đưa tay vẫy Tiên với nụ cười hiền lành, nói "Chú về trước nha con.", "Dạ, chú về khoẻ nha chú." Thì bây giờ, đối với sự qua đời của một người, mình thường an ủi là ... đi trước, đi sau. Cho nên, vẫn với câu chia tay của mấy năm trước, "Chú về trước nha con." thì Ti xin được gởi đến cho chú câu từ giã. "Dạ, chú về khoẻ nha chú."