Trong một buổi nói chuyện cùng người dân địa phương để vận động cử tri hưởng ứng việc tranh cử ngôi
Tổng Thống, viên tỷ phú lừng danh
Donald Trump đã bị một sinh viên 20 tuổi gốc
Nam Hàn bắt nạt ông về việc ông đã tuyên bố sai lệch một thông tin quân sự, có thể gây ảnh hưởng đến mối quan hệ
Mỹ-Nam Triều Tiên. Thế nhưng, thay vì để cho anh sinh viên ấy nói hết câu thì
Trump đã tỏ thái độ thường lệ của mình là lớn giọng
đàn anh hiểu biết, lại thích nói sốc giữa công chúng, khi ông ta gạn hỏi ngược lại anh sinh viên kia rằng,
"Anh có phải là người Nam Hàn không?" Ngụ ý rằng, có phải vì anh là người dân
Nam Triều Tiên nên mới múa rìu qua mắt thợ, cao giọng vì quốc thể? Trước thái độ hách dịch, đầy thách thức của nhà tỷ phú, anh sinh viên đã điềm tĩnh cho ông ta biết rõ nơi chôn nhao cắt rốn của mình là trên đất
Mỹ, đi kèm với một câu nói:
"Cho dù tôi sinh ra nơi đâu đi nữa, tôi cần ông nói cho đúng sự thật!" Qua đó, anh sinh viên đã làm cho nhà tỷ phú phải tâm phục khẩu phục, và những người chứng kiến đã hết lời ngợi khen thái độ nhanh trí, đầy phong độ, và rất chững chạc của một thiếu niên mới tròn 20 tuổi. Thật ngẫu nhiên làm sao! Bởi khi nắm ngôi hoàng đế,
Tần Tuyên Chiêu Đế Phù Kiên thật trong lịch sử
Trung Hoa cũng chỉ mới tròn 20 tuổi! Cũng con người ấy, trong lối tạo hình của tác giả
Văn Tiên, khác với vài nhận xét anh là kẻ
tà chính không thông, tâm lý phức tạp, v.v.. thực chất là bậc chính nhân quân tử, đầy quả cảm, lại khéo léo khôn ngoan qua từng ứng xử, đối phó trong ngoài. Nếu
Phù Kiên của
Văn Tiên cũng ở độ tuổi 20 khi thành danh nghiệp
Đế, và nếu chỉ cho
Phù Kiên một lời nhận xét thì phải nói con người ấy
rất đáng ngôi Thiên Tử...
Bách thiện hiếu vi tiên...Trăm sự thiện, đạo Hiếu đi đầu"Tuy là một nhà quân sự tài ba lỗi lạc, nhưng bệ hạ vốn là người tình cảm...Làm gì quyết không phụ người!"Có lẽ xuyên suốt kịch bản dài trên 10 tiếng, thì duy chỉ câu nói trên đây của
Trương Lệ Hân mới có thể miêu tả con người của
Phù Kiên cách trọn vẹn và đúng nghĩa nhất. Như thế, nếu đã là người tình cảm, làm gì cũng biết nghĩ cho người khác thì có lẽ không chi để ta phải ngạc nhiên nếu xét ở đạo nhà,
Phù Kiên quả không hổ danh hiếu tử với cha mẹ, lại rất trọng nghĩa gia đình. Sự hiếu thảo ấy không chỉ dừng lại ở việc khiến
Phù Kiên đã cam lỗi
sát Vương để bảo toàn mạng sống cho cha ở lúc đầu, mà nó còn được liên tục thể hiện qua từng hành động, suy nghĩ của anh mãi đến cả sau khi
Kiên đã đăng quang
Đế nghiệp- là lúc anh có thừa khả năng và binh lực, nhưng vẫn nén lòng đợi đến khi anh biết chắc cha mình không còn sống nữa thì mới dám nghĩ đến việc thâu tóm
Ngũ Hồ. Có thể nói, dù làm gì, ở đâu, sự hiếu thảo nơi con người
Phù Kiên luôn đc thể hiện rõ nét qua mỗi hành động, lời nói- dù lớn hay nhỏ. Chúng ta thử xem lại thái độ của anh khi đến chiêu hàng
Vương Mãnh.
Khi cho
Vương Mãnh biết
Phù Hùng đã nắm ngôi thì điều thứ nhất, thái độ cung kính đối với cha mình được
Phù Kiên biễu hiện qua hai từ
TRỌNG PHỤ. Tiếp theo đó, khi cho biết anh hiện là
Đông Cung Thái Tử, thì
Phù Kiên chỉ nói lời miễn lễ cho bạn sau khi
Vương Mãnh đã tôn vinh đương kiêm
Hoàng Đế. Người ta có thể luận rằng, tất nhiên vì
Vương Mãnh là người
Phù Kiên đang đi tìm để chung lo đại sự thì lý nào người
Kiên trông cậy lại là kẻ chưa chi đã bất kính đối với đương kiêm
Hoàng Đế?! Song, đó chỉ là từ khía cạnh đạo
Quân-Thần. Nhưng ở khía cạnh đạo
Hiếu thì vẫn có thể luận rằng
Phù Kiên RẤT xem trọng cha mình, nếu không nói là tiếng tôn vinh người khác dành cho anh là hoàn toàn vô nghĩa, mà quan trọng hơn
phải luôn là danh vị của
Phù Hùng, cha anh.
Qua nhiều biến cố sinh tử cuộc đời
Phù Kiên, có lẽ đỉnh cao chói rạng gương
Trung-Hiếu, mà cũng là bức chân dung con người thật của
Phù Kiên là cảnh anh trở về
Tương Đương rồi đối diện với án trảm. Trước tiên, khi biết mình sẽ phải thọ án,
Phù Kiên đã thể hiện tinh thần
"quân xử thần tử...phụ xử tử vong", thản nhiên đón nhận cái chết dù biết mình đã không hề làm sai điều gì cả. Trước khi thọ án,
Kiên vẫn thức trắng lo phác thảo hai bộ binh thư để giao lại cho hai viên tướng anh tin tưởng nhất:
Chu Tự và
Lữ Quang, và lại còn viết tâm thư gửi gấm vận mạng non nước cho ba quân tướng sĩ. Sự khéo léo của tác giả trong lối xây dựng tâm lý nhân vật
Phù Kiên nằm ở phong thái của anh khi đối diện với cái chết gần kề. Chúng ta có thể nghiệm ra
Phù Kiên chẳng những là người con rất có hiếu với cha, mà còn là một vị tướng sống thác cũng chỉ có hai tiếng
NƯỚC NON là trọng. Hoạ xâm lăng vẫn còn đó, loạn hoàng triều với những kẻ sâu dân mọt nước do tên bạo chúa
Phù Sinh gieo mầm vẫn còn đây.
Kiên hiểu, và
RẤT hiểu nữa là khác! Dù vậy, không vì thế mà
Kiên quên đạo
vi thần, buôn trôi chữ
Hiếu. Việc anh sẵn lòng thọ án tử cách oan ức đã chứng minh
Kiên hoàn toàn không tham luyến tước vị hay ngôi cửu đỉnh như bao nhiêu người trong hoàng gia (ngoại trừ
Phù Hùng) đã hiểu sai về anh! Không nói đến việc anh mang lưỡng huyết vì thực chất, anh là con ruột của vị
Hoàng Đế tại vị thì tất được nối nghiệp vua cha; tất nhiên là
Kiên sẽ có đủ lý lẽ để gán tội khi quân cho những kẻ chống đối phi lý!
Trở lại sự kiện ở
Tương Đương thì quả thật
Phù Kiên vẫn có thể xoay chuyển thế cờ khi hàng vạn binh tướng đều thuộc dưới quyền của anh, và họ vẫn luôn một lòng
"....chờ danh tướng ra tài an ban..." nhưng thà là anh
"...trở về cát bụi, trả lại đời đạo bề tôi..." vẫn hơn phải cảnh
"trăm năm bia đá cũng mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ!" Lòng hiếu thảo của
Phù Kiên, hoà với niềm yêu tổ quốc thiết tha, trọn tâm huyết cho hoài bão có ngày
"...non nước này hoà câu thái lai..." toả rạng đó là sau khi đọc mật thư của vua cha, hiểu rõ mình sẽ làm gì,
Kiên vẫn tuyên bố trước chư tướng rằng:
"Ta đã khán chỉ thánh quân mà phản Tần..." Ở đây, tầm cao giá trị chữ
Hiếu tác giả đã đặt để cho
Phù Kiên chính là việc anh không muốn vô tình hạ thấp vinh dự của cha mình trước
Tần quân, mà cũng không cần phải dài dòng nêu một nguyên nhân khác- ngoài sự việc hiển nhiên trước mắt là sao anh có thể rạch đất xưng
Vương kể từ bấy giờ:
Kiên đã khán chỉ vua cha! Đơn giản chỉ có thế.
Phù Kiên không hề có sự bắt buộc phải giải thích với ai những việc mình làm, cứ xem như mọi lỗi lầm đều do anh, và nếu có oan tình thì chỉ riêng một
Phù Kiên hiểu thấu. Mặt khác, phải chăng
Kiên đã dụng chính lý lẽ hiển nhiên một phần nào để thử lòng những kẻ mà trước đó vài giờ, đã thề sống thác vì
Điện Hạ, sẳn lòng
"....lấy cái chết để tiễn bước Đông Cung...", v.v...? Khôn ngoan tinh tế là thế. Hiếu thảo đối với đấng sinh thành là thế. Quả thật tương xứng khi lòng kẻ hiếu tử đã được đáp trả bằng việc
Phù Hùng, dù với bản tính
"nghiêm quân lệnh mà xem nhẹ tình nhà" sẵn có, thì cũng đã hết dạ che chở, bênh vực cho con trong sự tế nhị, kín đáo cá nhân. Và cuối cùng thì ông cũng đã không ngại hy sinh cả ngôi chí tôn của mình để nâng bước con lên ngôi
Đại Đế.
Ngoài những điểm nêu trên, tác giả đã rất tinh tế khi đặt để cuộc đối thoại ngắn giữa
Chu Tự và
Phù Kiên trước khi tương kiếm lệnh. Qua cuộc đối thoại ấy- tuy chỉ là một câu hỏi ngắn thì cũng làm toả sáng lòng trung quân ái quốc nơi
Thái Tử họ
Phù. Có hai khía cạnh đáng luận trong tình huống này...
Thứ nhất, dù biết mình không có lỗi, nhưng chiếu quốc pháp,
Kiên không hề khán chỉ,
không chống trả, mà cam lòng chịu cảnh
"....gối hạ quỳ, cho thọ án biêu đầu..." mặc dù ngay vào thời điểm bấy giờ,
Phù Kiên có đủ lý do, và
thừa sức lật đổ hoàng triều, sát phụ tru quân! Sở dĩ phải nói
Kiên có
đủ lý do là nếu dựa trên cơ sở
không có lá thư nằm bên trong thanh kiếm lệnh gãy đôi thì xét lý tình,
Phù Hùng không hẳn là hôn quân vô đạo như
Phù Sinh, nhưng ông quả chưa đáng bậc minh quân khi đã vì nhu nhược mà không dám chống lại hoàng gia, để cam lòng phê án trảm một tướng tài, lại đó chính con ruột của mình!
Thứ hai, từ góc nhìn của
Chu Tự thì có lẽ anh đã được
Phù Hùng trao gửi ân cần và dặn dò rất kỹ lưởng trước khi cầm kiếm lệnh tìm đến
Phù Kiên. Nói cách khác, khi mang lệnh trảm đến cho
Phù Kiên thì có khả năng
Chu Tự đã biết rõ trong thanh kiếm có bức mật thư. Tuy không được minh hoạ rõ rệt nhưng chúng ta có thể hiểu trong câu nói của
Phù Hùng:
"Vậy thì khanh hãy chứng minh lòng mình....giải Phù Kiên về triều, dù sống hay chết!" , và tiếp theo là sự ngập ngừng của
Chu Tự trước khi nói lời tuân thủ cũng có nghĩa là giữa họ đã có sự ngầm hiểu ý nhau; hoặc có thể
Chu Tự chưa hiểu ý vua ngay lúc đó, nhưng
Phù Hùng thì chắc chắn biết mình sẽ làm gì ngay đêm ấy và việc ông triệu
Chu Tự vào để giao việc đi tìm cho ra
Phù Kiên không phải chỉ là ngẫu nhiên, hay chỉ vì
Chu Tự giữ chức
Ngự Tiền Thống Soái. Như vậy, việc
Chu Tự hỏi
Phù Kiên giữa ba quân tướng sĩ về việc tại sao
Kiên không chống lại phụ hoàng khi các lộ quan ải đều đang ở trong tay của anh, ắt hẳn không chỉ là câu hỏi để hoãn giờ xử án. Phải chăng đó là tiền đề tác giả đã gieo vào cho thấy sự anh minh của
Phù Hùng khi quyết định bãi án và để cho con mình tách hẳn khỏi đất
Tần, là hoàn toàn hợp lý như chính ông đã từng nói với
Kiên:
"Cha không hiểu con, thì hiểu ai đây...". Hơn nữa, việc
Phù Kiên trả lời câu hỏi gần như vô nghĩa, gây mất thời gian của
Chu Tự phải chăng là dịp để cho
Phù Kiên phơi bày tâm tư của mình trước chư tướng; là cách gián tiếp
Chu Tự chứng minh cho mọi người thấy
Phù Kiên rất đáng bậc
quân chủ, và nếu
Kiên có rạch đất xưng
Vương thì họ cũng không phải phò lầm người.
Về sự hiếu thảo của
Phù Kiên đối với mẹ thì hình như không được rõ nét cho lắm. Tuy vậy, nếu ta nhớ lại đoạn công chúa
Diêu Tường dặn dò con trai mình trước khi bà nhắm mắt rằng:
"Thân ở Tần bang, cũng đừng quên đất mẹ nơi Khương quốc..." và tiếp sau đó là:
"...nếu con có về Khương quốc, nên quốc phục mà bái lại thái miếu cho mẫu thân được rỡ ràng danh phận." Sau lần tái hợp đó,
Kiên đã không còn dịp thấy mẹ một lần nào khác, nhưng xem ra, việc anh trở lại
Khương quốc lần thứ hai, sau chút chạm trán với cữu hoàng,
Kiên đã vận
Khương phục mà bái lễ đất trời, hoà mình trong đêm hội trăng rằm ngày ấy. Hành động đó tất đã nói lên thái độ dĩ hoà của
Phù Kiên đối với cậu; mà hơn tất cả, nó cũng ít nhiều nêu cao lòng hiếu thảo đối với mẹ. Xem ra thì
Phù Kiên, thân là thái tử
Tần bang nhưng khi đã chịu khoác lên người bộ
Khương phục tức là
Phù Kiên đã hoà đồng, đã tự nhận mình không khác gì con dân
Khương quốc- một cách anh gián tiếp thưa với hương hồn của mẹ rằng,
"Thân con vẫn ở Tần bang nhưng con không quên đất mẹ là đây!"Quân tử đạo hữu tamVốn được chọn làm vật tổ của người
Giao Chỉ xưa,
Giao Long- dù chỉ là con vật truyền thuyết, theo ý nghĩa tâm linh được xem là con vật có tính thiện ưa giúp kẻ hiền lương, nhưng lắm khi cũng nổi giận, sẵn lòng gieo mầm tai hoạ xuống cho con người. Phải chăng, qua lăng kính
Trung Dung thì
Phù Kiên cũng đầy đủ tư cách
"quân tử đạo hữu tam" , nhưng vẫn đầy đủ những
Hỷ, Nộ, Ái, Ố, Ai, Lạc, Dục mà yếu điểm của anh vẫn là hai chữ
Tình và
Hiếu? Thiết nghĩ không cần phải dài dòng bàn luận hai yếu điểm này ở con người
Phù Kiên, bởi nếu đã xem kịch bản nhiều lần thì chúng ta cũng đã chứng kiến anh bi lụy thế nào vì một
Trương Lệ Hân, và nổi bật nhất vẫn là khi tinh thần anh đã xuống đến mức không còn gì để mất khi chứng kiến cha tự sát ở thành
Lạc Dương. Thiết nghĩ,
Văn Tiên đã rất thực tiễn khi tạo hình nhân vật
Phù Kiên như thế bởi hai nguyên lý: thứ nhất, tác giả
không thần thánh hoá nhân vật, làm mất đi nguồn cảm xúc của khán giả khi chứng kiến nhân vật đi từ sự khổ ải vạn trùng ba này đến nỗi đau thương mất mát khác. Giá như tác giả cứ đặt để cho
Kiên lúc nào cũng tỏ ra vô cảm, lại mưu lược như thần thì cảm xúc người xem còn đâu nữa? Vả chăng, ở đoạn cuối ta sẽ nghĩ việc
Phù Kiên có được cơ đồ là chuyện tất nhiên! Anh ta mình đồng da sắt kia mà....
Thứ hai, những diễn biến nội tâm (từ cảm giác vui mừng sang đau buồn, tức giận sang lắng dịu, khuất phục, v.v..) đã dìu theo những bước thăng trầm trong cuộc đời
Phù Kiên như cặp đôi rất hoàn hảo, là sự tương phản- chính thước đo giá trị vinh quang có được ở đoạn cuối. Nói cụ thể hơn là giá như ta đã không chứng kiến một
Phù Kiên trong đau đớn tột cùng, chìm sâu dưới đáy tuyệt vọng, chỉ muốn chết cho xong khi phải tận mắt nhìn cha đã phải tự sát vì sự nghiệp của mình, thì sẽ khó lòng ta cảm nhận được sự khó khăn của anh đến dường nào (không nói đến sự hổ trợ tinh thần cho anh từ nhiều phía) khi
Phù Kiên đã cố sức gượng đứng dậy, lấy hết nghị lực mà tiến quân chinh phạt
Ngũ Hồ. Và nếu đã không cảm nhận được sự dằn xé ở nội tâm ở đoạn trước, liệu ta có cảm nhận được ý nghĩa nỗi vui mừng của
Phù Kiên ở đoạn cuối khi anh được vinh hạnh đăng cơ trước sự chứng kiến của cha minh- cái ngày mà chắc hẳn có nằm mơ
Kiên không bao giờ dám nghĩ vì như ta cũng đã nghe tâm tư nát lòng của kẻ sắp đăng cơ rằng:
"...ngôi hoàng vương, chợt nghe lòng đau! Nhìn giang san ôi mờ vắng thâm tình..." Sở dĩ chúng ta cần loại bỏ khía cạnh rằng
Kiên đã được lời khuyên lơn, cùng với sự hổ trợ từ nhiều người (nhất là từ
Vương Mãnh) là vì cho dù có bao nhiêu lời khuyên đi chăng nữa, tự nghị lực cá nhân mới vẫn là trọng điểm.
Đâu đó giữa những biến đổi thời cuộc, đã có lời rằng,
"Anh hùng thì hãy tạo nên thời thế chứ đừng để thời thế phải tạo anh hùng!" Với
Phù Kiên thì hình như cả 2 vế của câu nói này đều không áp dụng được cho anh. Nói như thế không có nghĩa là
Phù Kiên không đáng mặt anh hùng, mà vì anh
không hề có mộng xưng bá chủ, lại càng
không hề có ý muốn được tôn vinh là hào kiệt. Thực chất trên phương diện
quân tử đạo,
Kiên có
Nhân, ấy là lòng thương người mà anh đã thể hiện vô số lần.
Kiên có
Trí, ấy sự hiểu biết đúng, sai, không hề bị nhầm lẫn trong tư duy. Và sau hết là chính vì anh luôn biết mình đang làm gì nên anh cũng có
Dũng là sự gan dạ, dám vượt mọi khó khăn, gian nguy, không sợ gian lao cho dù phải đối đầu với thập tử nhất sinh, vẫn kiên trì đi cho hết con đường mình lựa chọn. Do đó,
Phù Kiên là mẫu người rất dễ bị hiểu lầm. Phải chăng trong sự thinh lặng, quyết đoán,
Phù Kiên vẫn có chút kiêu hãnh khó tránh khỏi của một kẻ tự hào mình trí tài song toàn, khiến tạo nên vẻ của một kẻ
"độc đoán trong ngoài, xem thường chữ quốc uy...." và hoàn toàn
"...bất chấp vương quyền....."! Có thể nói phong thái tự tin nơi con người
Phù Kiên luôn đạt đến tột đỉnh, khiến hành động của anh chứa đầy mạo hiểm, gần như bất cần, bất tuân, nếu không muốn nói là xem thường quốc pháp, gia quy khiến cả người bạn thân thiết mà anh tin tưởng nhất cũng phải lo sợ một ngày nào đó
Thái Tử sẽ
"...phạm tội tày đình mà ta không thể nào đỡ mạng..." Tuy vậy, nếu nói
Phù Kiên là một con người phức tạp, khó hiểu thì có lẽ sự khó hiểu ấy đã xuất phát từ phong thái kín đáo của bậc đại trượng phu chí cả, bởi không phải cứ lúc nào trong mưu sự cứ phô trương lắm lời. Chẳng trách sao
Kiên bị xem là một con người với
"...cử chỉ nhún nhường như tuân thủ quốc quy, nhưng trong tâm khinh miệt mọi người...", "....kẻ khẩu Phật tâm xà...lòng lang dạ sói...tâm dạ đê hèn..." Mặt khác, khẳng định
Phù Kiên không có mộng
Đế Vương không phải là sự lệch lạc, bởi điều này tác giả đã minh hoạ
ít nhất 2 lần trong kịch bản qua những câu nói của
Phù Kiên. Đó là lần thứ nhất khi
Diêu Tường Cơ trổ tài khuyến dụ anh về dưới trướng
Khương đế để có thêm vi cánh, ta thấy thái độ của
Kiên vô tư và bất cần ngôi
Vương. Lần thứ hai, khi cữu hoàng
Diêu Trường bị sanh cầm ngoài chiến tuyến,
Phù Kiên đã cản mũi giáo giữa
Vương Mãnh và
Diêu Trường, và một lần nữa,
Kiên xác định việc anh không màng ngôi quân chủ khi nói rõ mục đích ra quân của mình. Ở đây, xin được nói thêm là
Diêu Trường rõ thực sự chẳng phải kẻ quân tử khi ông đã dùng tình cảm con gái của mình dành cho
Phù Kiên, áp dụng kế điệu hổ ly sơn để đưa
Kiên sa lưới. Song, tâm lý tàn ẩn vẫn là hành động phi quân tử của
Diêu Trường vô tình làm cho quân tử đạo, hiếu đạo, và dũng khí nơi con người
Phù Kiên càng chói rạng hơn! Theo lẽ tất nhiên thì một khi
Kiên đã chấp nhận theo quận chúa
Diêu Tường Cơ về giải cứu cho cữu hoàng
Khương đế là anh chắc chắn đã biết mình hoàn toàn có thể rơi vào cảnh tứ phương thọ địch, nhưng anh đã không vì thế mà mắt lấp tai ngơ khi nghe tin cậu bị nạn. Khi khói lửa binh đao sắp tàn, nếu
Phù Kiên là kẻ tiểu nhân như
Diêu Trường thì liệu với sự hổ trợ bí mật từ
Vương Mãnh, và với tư cách là kẻ chiến thắng đang đứng trước giặc thù thì có nên chăng, chiếc đầu của đương kiêm
Khương đế Diêu Trường đã rơi lăn lóc dưới chân
Kiên? Lối ứng xử của
Phù Kiên đối với cữu hoàng đã chứng tỏ hai điều- thứ nhất, anh không nhìn về cậu như cậu đã nhìn về anh: một mối đe doạ. Đơn giản là vì trong mắt
Kiên thì đó mãi mãi là người cậu mà anh kính nể vì hình ảnh của mẹ, lời trăn trối của bà luôn còn phản phất mỗi khi thấy cậu...
"Thân ở Tần bang, cũng đừng quên đất mẹ nơi Khương quốc..." Quê mẹ không chỉ là những cảnh vật quen thuộc khi tận mắt nhìn lại, hay chân đang đạp trên nền đất. Quê mẹ, trong tâm trí kẻ biết trân trọng, vẫn hiện hữu nơi chính con người có liên quan đến nơi đó- đừng nói chi đến chính đây anh của mẹ. Thứ nữa, tha mạng cho kẻ nghịch thù với lời lẽ ôn hoà là thể hiện tư cách hiếu hoà không hiếu sát. Chu tất xa giá đưa
Khương vương về cố quốc là thể hiện tình gia đình trước sau như một- dù mẹ anh còn hay đã mất. Thiết nghĩ, chính phong cách cao đẹp đó đã làm cho vị cữu hoàng kia phải tâm phục khẩu phục đứa cháu đầy nhân cách chẳng sai!
Đã từng có ai đó thắc mắc vì sao ở cuối kịch bản,
Phù Kiên lại giao ngọc tỷ cho thừa tướng và như thế thì còn gì là quyền chí tôn vô thượng. Thật chẳng phải ngẫu nhiên mà
Văn Tiên lại đặt để như thế! Bởi nếu chúng ta nhớ lại, đó không phải là lần đầu tiên
Phù Kiên giao ngọc tỷ cho người khác mà không cần đắn đo, bởi chẳng phải
Kiên đã vì người dân đất
Châu mà trao đổi quốc tỷ cùng cữu hoàng
Khương đế ấy là gì? Vả chăng, cả hai lần anh trao ngọc tỷ ấy chỉ minh chứng anh
KHÔNG hề có mộng
Vương quyền. Tất nhiên, việc anh trao ngọc tỷ cho
Vương Mãnh không phải để trao đổi đất dân, mà là trả công cho bậc trung thần xứng đáng; tuy vậy, gẫm việc anh mất hay còn quyền hạn chí tôn đâu còn là điều quan trọng đối với
Kiên bấy giờ (nói đúng hơn là chưa bao giờ nó quan trọng đối với anh)... Tâm nguyện đã thành, non sông gấm vóc đã về một mối, dân chúng sẽ âu ca lạc nghiệp,
Tần Chiêu Đế Phù Kiên có gì phải sợ mất ngoài đức bỉnh trị thiên hạ? Hay nói đúng hơn, thu phục nhân tâm để trường tồn cẩm tú vẫn được
Phù Kiên đặt hàng đầu thì âu đó cũng là tư cách bậc chính nhân quân tử,
"...làm gì quyết không phụ người..." là thế.
Hoa Sơn ẩn một nhân tài...Khi nghĩ đến
Vương Mãnh, tôi liên tưởng đến hình ảnh vị
"chúa tể sơn lâm" với bản chất khôn ngoan, mưu trí, mà lại thích sống ẩn dật, không màng tranh chấp. Trong thế giới hoang dã, mãnh hổ vẫn phải ngày ngày đi săn vì sự sinh tồn, nhưng trái với những gì chúng ta nghĩ, hổ không có tính tàn độc, thích rình rập giết hại phi mục đích. Tuy thế, vì nó là mãnh thú nên hổ thường bị hiểu lầm là con ác thú; trong khi thực chất, hổ yêu chuộng sự thanh vắng, thích bình yên vì cá tính rất nhút nhát! Hình ảnh yêu thích sự đơn phương nơi mãnh hổ có lẽ gợi nhớ đến
Vương Mãnh trong những năm tháng anh ẩn trú nơi dảy
Tần Lĩnh heo hút.
Trong tất cả các vị dũng tướng phò trợ nghiệp
Tần thì có lẽ
Vương Mãnh dễ gây sự chú ý cách lệch lạc nhất. Thậm chí anh rất dễ bị xem thường vì hình như đã ít nhất hai lần trong đại sự thì anh đều cần phải có
Hà Như Nguyệt phu nhân hổ trợ thì mới nên(?) Ngẫu nhiên làm sao, cũng giống như
Phù Kiên, thừa tướng họ
Vương lại là mẫu người rất dễ bị hiểu lầm! Tuy vậy, điều đáng nói hơn cả là
Vương Mãnh vốn người có thực tài, rất thông minh, nhưng không chuyên quyền cậy thế, bởi dưới cả hai triều đại anh khuông phò,
Vương Mãnh đều giữ vị trí cao nhất, chỉ dưới một quyền
Thiên Tử mà thôi, song chưa có một lần nào
Mãnh đi quá xa quyền hạn cho phép. Suy cho cùng,
Vương Mãnh vẫn có thể mang tính kiêu ngạo và ỷ mình, bởi thật khó phủ nhận anh là người rất được lòng hoàng gia vì chẳng phải
Phù Hùng, ngay khi mới tái hợp cùng
"điệt nhi", đã không ngần ngại giao ngay
Long Phụng Kiếm cho thừa tướng toàn quyền nội ngoại đó là gì? Thứ nữa, anh là bạn thân của
Đông Cung họ
Phù- người mà ai ai cũng nể sợ uy danh; mà quan trọng hơn nữa là chính
Thái Tử đã tìm vào nơi sơn cùng, thủy tận để chiêu hàng vị cao nhân ấy. Xét cho cùng,
Vương Mãnh vừa được lòng
Hoàng Đế, lại là bạn thân của
Thái Tử, vừa nắm trong tay quyền hạn vô song, có khả năng tiền trảm hậu tấu, thì sao anh lại chẳng có đủ lý do để chuyên quyền tự phụ? Sự khôn ngoan của
Vương gia là ở điểm đó- chức trọng, quyền cao nhưng rất khiêm nhường, lại không hề nhu nhược trong phép công. Quả không chi cường điệu nếu nói
Vương Mãnh là kẻ rất cương trực, thẳng ngay, đáng mặt môn sinh thuyết
Trung Dung- làm đúng thì chẳng chi phải sợ.
Luận về nguyên nhân
Vương Mãnh rất dễ bị khinh thường và hình như
Mãnh đã từng bị xem là kẻ
"được gọi là Gia Cát Lượng tái thế sao dễ bị lầm lẫn đến tai hại","làm gì cũng phải có vợ mới nên...", v.v... thì thiết nghĩ, việc không chi là ngạc nhiên! Bởi trong lối tạo hình phá cách, tác giả có thể làm cho một vài người trong chúng ta khó chịu khi con người
Vương Mãnh đã được
tôn vinh quá đáng. (Xem ra, nếu anh chỉ dựa vào vợ mới nên chuyện thì sao gọi anh là
"Gia Cát Lượng tái thế" mà yên?) Có thể ta dễ có thành kiến về con người này, nhưng chính cá tính được gieo ở con người của
Vương Mãnh mới đả phá khái niệm hủ lậu rằng
phụ nữ không nên bàn quốc sự. Nói cách khác, có lẽ
Văn Tiên đã gián tiếp mời gọi chúng ta tách khỏi
"lối mòn" kịch bản phong kiến mà hãy nhìn từ khía cạnh
"rộng lượng" hơn là bất luận nam hay nữ, chúng ta vẫn có thể hổ trợ cho nhau bằng những ý kiến (hoặc hành động) bổ ích- huốn hồ chi chính một nửa của ta! Khác với thói
trọng nam khinh nữ, xem ra, nàng
Như Nguyệt của
Văn Tiên đã chiếm một vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp của chồng, mà cụ thể hơn là hai tình huống sau...
Lần thứ nhất, khi
Phù Kiên tức giận bỏ về từ dinh thừa tướng sau khi đã cảnh báo người nên giao
Lữ Quang và
Tôn Nữ nếu ý không muốn khích tướng
Đông Cung phủ, ta thấy
Như Nguyệt xuất hiện từ hậu dinh và
Vương Mãnh đã hiểu ngay ý vợ sắp nói gì. Điểm này rất khác với những kịch bản xưa nay vốn ta đã quen nhìn thấy người vợ chỉ cần lên tiếng một vài lời là sẽ được nhận sự quát nạt từ ông chồng
"trí cao chức trọng" rằng,
việc nước can chi đến nàng, thân tề gia nội trợ.... Hoặc
"khôi hài" hơn là sẽ nghe chồng
"dạy" vợ là
"thân đàn bà chớ xen vô quốc sự, ở nhà có đám giỗ đám quãi thì lo chuyện bếp núc đi...". Ở đây, chẳng những ta thấy được cung cách tôn trọng vợ nơi
Vương Mãnh, mà anh đã không ngại luận bàn với
Như Nguyệt những điều trăn trở như một lời mời gọi nàng hãy cùng với anh chung lo đại cuộc.
Lần thứ hai là khi
Phù Kiên chuẩn bị đối diện với
Khương đế Diêu Trường ngoài mặt trận thì trước đó
Như Nguyệt đã chiếm vai trò quan trọng là viết mật thư kêu gọi chồng nghĩ lại để rồi về lại phò
Tần Chiêu Đế. Như vậy trước hết,
Như Nguyệt nghiễm nhiên trở thành nhân vật rất quan trọng cho công cuộc thống nhất
Ngũ Hồ của
Phù Kiên, vì đã giúp cho
Tần Chiêu Đế không bị mất đi một nhân tài xứng đáng. Kế đến, sự góp mặt thầm lặng của
Như Nguyệt sau lưng chồng không hề làm lu mờ đi tầm giá trị của
Vương Mãnh- nếu không muốn nói là làm toả rạng hơn! Suy cho cùng, nếu nói vì
Như Nguyệt dù sao cũng xuất thân là
quận chúa khiến
Mãnh ít nhiều phải nể phục thì thật là oan uỗng (hay oan ức) cho anh, và cũng hoàn toàn phi lý! Bởi thực tế chứng minh là nếu anh nể phục thì chắc chắn đã không thẳng tay truy xét vụ án giấu người nơi hậu dinh mà chắc rằng với sự thông minh của mình, anh thừa hiểu chính
Như Nguyệt là tòng phạm với
Đông Cung để bao che tội phạm. Nếu đến cả
Đông Cung mà
Vương Mãnh cũng đành phải để mất lòng mà chấp pháp cho nghiêm minh thì hà tất gì đến
Như Nguyệt quận chúa, kiêm phu nhân của mình? Rồi đến việc
Mãnh về lại bên
Tần Chiêu Đế, nếu cho rằng vì anh đã cả nể phu nhân của mình thì hoá ra trước và sau
Phù Kiên đã chọn lầm kẻ nhu nhược, thiếu bản lĩnh đến thế chăng? Và như vậy thì chẳng những
Vương thừa tướng bị xem thường mà ngay cả
Đông Cung họ
Phù quả không đáng được ca ngợi vì chính
Phù Kiên đã mang
Vương Mãnh về cho
Tần quốc. Nếu nói
Vương Mãnh chỉ có dựa cậy vào vợ mới nên đại sự thì ta nói sao về việc
Phù Kiên suýt liều tất cả khi nghĩ cha đã mất, và phải nhờ đến những lời khuyên của các
Tứ Đại Mỹ Nhân thì
Kiên mới kịp nghĩ lại? Ở đây, mạng phép luận qua cảnh
Phù Kiên tìm chiêu hàng
Vương Mãnh để cụ thể hoá tầm quan trọng của con người này- theo lối xây dựng tâm lý của tác giả.
Không hiểu vô tình hay ngẫu nhiên mà tác giả chọn mấy vần từ thất ngôn bát cú
Tảo Thu Sơn Trung Tác của một thi sĩ cùng một họ
Vương (
Vương Duy) để tạo cảnh gặp gỡ giữa đôi tâm giao tri kỷ
Kiên-Mãnh. (Nếu là hữu tình thì không ngạc nhiên lắm vì đó mới là "
phong cách Văn Tiên"...) Chúng ta thử tham khảo 2 câu sau:
Tịch mịch sài môn nhân bất đáo,
Không lâm độc dữ bạch vân kỳ....
Yên tịnh cửa mành không khách viếng,
Một mình kết bạn với mây trôi...
Tôi mạng phép tránh 2 câu nguyên bản của tác giả đã dịch để vì mục đích bài bình, nên có thể đã gây khó hiểu cho các bạn. Thế thì trước khi luận hai câu cuối trong bài thơ này, xin nói sơ qua về thi sĩ
Vương Duy.
Cùng với
Lý Bạch và
Đỗ Phủ, thi nhân họ
Vương nổi danh vào thời kỳ
Thịnh Đường. Là một tín đồ trung thành của
Phật Giáo Nam Tông, và cũng đã từng thọ tước quan dưới triều
Đường Huyền Tông, ông được ca ngợi với biệt danh là
Thi Phật. Vốn kẻ rất giỏi thư pháp, rất thạo văn,
Vương Duy lại rất yêu thiên nhiên nên các tác phẩm của ông thường tả cảnh hữu tình non nước cách sâu sắc....
Trở lại với hai câu cuối trong
Tảo Thu Sơn Trung Tác trên đây thì nó miêu tả sự hoang vắng cô tịch của một nơi thâm sơn cùng cốc. Đọc qua, ta có cảm giác nơi ấy hoang vắng đến mức quanh năm suốt tháng kẻ sống nơi đó chỉ có thể làm bạn với những vầng mây trắng bay ngang. Thật cô tịch làm sao! Hai câu thơ này rất xứng với hình ảnh một
Vương Mãnh chán ngán câu khanh tướng công hầu, chỉ vì người thân của anh đã lao nhọc cả đời vì hai chữ
Quân-Quốc rồi cuối cùng phải chịu thác oan đáng thương! Thật khéo léo khi tác giả chọn một phần bài thơ trên để tả cảnh tái ngộ giữa
Phù Kiên-Vương Mãnh bởi nếu ta nhớ rõ thì
Phù Kiên dù gì cũng là thân cành vàng lá ngọc, là đương kiêm
Thái Tử. Hà tất chi mà phải lặng lội từ kinh thành, trèo dảy
Tần Lĩnh Sơn, dọc đến
Hoa Sơn để tìm bạn, nếu người bạn ấy không xứng đáng chi?
Phù Kiên là kẻ đa mưu túc trí, văn võ song toan, lại hữu chân mạng
Thiên Tử thì tất có biết bao sĩ phu sẵn lòng theo phò trợ kia mà? Đâu cớ chi phải nhọc nhằn mang phẩm phục hoàng triều đến tìm kẻ mai danh ẩn tích kia để rồi nghe anh ta phủ phàng:
"Mau dời chân Đông Cung hãy đi, nguyền đôi đàng ta dứt tình! Dòng Tây thủy ly tâm!".... Không rõ có phải
dòng Tây thủy mà tác giả nói đến, chính đó con sông
Lưu Diệp? Nếu đúng thật là con sông ấy thì theo phong thủy, hướng
Tây có xu hướng bảo thủ, chậm chạp, giữ vững cái đã có; và đối với sự việc mới thì khó tiếp thu, khó đổi mới nên có thể vì thế mà quyết định
"ly tâm" chăng? Đó là theo suy diễn cá nhân, và nếu chính xác là tác giả đã dùng hình ảnh dòng nước phía
Tây trong câu nói dứt tình kia thì gẫm rất thích nghi với thái độ của
Vương Mãnh lúc bấy giờ vậy.
Thực chất nếu đã không vì đại cuộc vượt hơn hẳn sự tự cao của một vương gia thì
Phù Kiên vẫn có thể thu hồi phần thưởng cho
Mãnh, mang tất cả về và không cần nói thêm gì với anh ta nữa. Dù việc đó có thể xảy ra, thiết nghĩ quan trọng hơn vẫn là sự có mặt của một vị
Thái Tử vương giả nơi thâm sơn hẻo lánh, tất cả là để cố tìm cho được một người. Điều ấy tất phải nói lên vị trí
Vương Mãnh ở đâu trong lòng
Phù Kiên, và dĩ nhiên là
Mãnh phải có thực tài mới khiến đến nổi dù anh đã rời xa kinh thành từ lâu mà vẫn được trọng dụng- đến cả
Tây Lương quận chúa cũng biết danh tánh! Mặt khác, thái độ ôn hoà, nhẫn nhục của
Phù Kiên trước lời xua đuổi, bất cần của
Vương Mãnh chứng minh hai điều: 1)
Vương Mãnh phải rất xứng đáng cho một anh hùng dân tộc trèo non, vượt suối để tìm đến và chịu đựng thái độ bất cần, thậm chí xua đuổi! và... 2) lòng ái quốc của
Phù Kiên vượt hẳn vinh dự một
Thái Tử gấp bội phần. Qua đó, gẫm
Phù Kiên đã sống đúng như lời nói là nguyền trải tim óc cho người dân nước
Tần, sống thác cũng hết lòng vì quê cha đất tổ...
Nhìn chung thì
Vương Mãnh, dù là một con người rất dễ bị ngộ nhận và thậm chí xem thường- như đã diễn giải trên, vẫn là một trí giả hào kiệt. Sự sắc bén trí tuệ của
Vương Mãnh nổi bật nhất là khi anh xử
Trương quận chúa trong vụ án
Bố Rạ, đủ cho ta thấy cách suy nghĩ của
Vương Mãnh tinh tế như thế nào khi anh đã "
gom hai thành một". Thiết nghĩ, chúng ta không cần nói thêm hơn vì đề tài nêu trên đã được bàn luận khá kỹ ở mọi khía cạnh trước đây. Hiệp cùng với
Phù Kiên, đôi bạn ấy chính là đôi
giao long-mãnh hổ uy vũ mang lại nền thịnh trị trường tồn cho dân quốc...
Vương Mãnh hay
Phù Kiên- qua lối xây dựng các nhân vật của
Văn Tiên dường như mô tả cách nhận xét lệch lạc về một con người khi ta thường dựa trên cơ sở một hành động hay một sự kiện nào đó trong cuộc đời nhân vật để đánh giá, phê phán. Lối đánh giá một chiều như thế liệu có gây thiệt thòi cho các nhân vật của chúng ta, hay thậm chí làm méo mó tâm lý câu chuyện hay chăng? Từ góc nhìn như thế thì rõ ra...
trong tà vẫn có chính và ngược lại...
Kỳ sau: Thập Lục Cầm, Thanh Long Kích, và nhị hà huyết sử....